Hà Nội trong cảm nhận của nữ nhà văn Hilda Arnhold, người Pháp, sẽ khiến bạn không thể không bồi hồi khi “nghe lại” những “tiếng rao quà” ở Hà Nội cũ, được chuyển tải bởi một giọng văn đằm thắm tình cảm. Những ghi chép này được trích từ Bắc Kỳ – phong cảnh và ấn tượng, xuất bản năm 1944 tại Hải Phòng (bản dịch của ông Trần Hữu Nhuận).
… Đêm đang tàn với bóng tối nhập nhoạng, ngày mới hé, ta nghe thấy tiếng xe lăn chậm chạp, gập ghềnh như thể bánh xe vuông, đó là cái xe kéo của phu lục lộ, một thứ xe kéo bộ có gắn cái thùng tôn. Tiếp đó là những tiếng vo ve ruồi nhặng, khạc nhổ xỉ mũi, tiếng ngáp, tiếng dụng cụ va quệt, lời qua lại trao đổi của anh phu xe, anh ta vẫn ngồi trên cái càng xe, có treo một cây đèn mạ kền sáng bóng theo luật của sở cẩm quy định. Cũng theo lệ, sáng tinh mơ người ta quét rác vỉa hè, tiếng chổi quẹt quẹt….
Mới tang tảng sáng, đã có nhiều người đi lại, tiếng guốc gỗ quệt vội vã, những bước chân trần giậm thình thịch. Một người đạp xe qua, chuông xe kêu lảnh lót, mùi thuốc lá thoang thoảng, chả hiểu sao mà người ta mở đầu một ngày làm việc sớm thế, trời đã sáng hẳn đâu. Trước tiên là ông bán phở gánh, ông ta xuất hiện với tiếng va chạm của chồng bát cùng với mùi thơm lựng của nồi nước dùng. Cái quầy phở lưu động của ông được bày trên vỉa hè nơi góc phố, có một thằng nhỏ phụ việc ngồi thổi lửa bằng cái ống tre. Mới thế mà đã có đám khách hàng vây quanh, trong ánh lửa nhập nhoạng giữa cảnh bóng tối chưa tàn. Cốp, cốp… tiếng dao băm thớt hòa nhịp với tiếng rao dõng dạc Phở ớ ớ… vang trên phố rất kỳ dị.
Còn 26 tuần nữa
Hòa cùng cả nước đếm ngược thời gian hướng về Đại lễ Ngàn năm Thăng Long – Hà Nội (10/2010), hãy cùng TT&VH Cuối tuần khám phá lại một “Hà Nội mến yêu” từ những góc nhìn “lạ”, những góc nhìn từ “bên ngoài”, của những người không biết nói “tiếng Hà Nội”, nhưng họ đã, hoặc tình cờ, hoặc bị thu hút, đến với thành phố này, khám phá nó. Góc nhìn Hà Nội của người nước ngoài, phần nào cho chúng ta thấy một Hà Nội khác, một Hà Nội không còn chỉ của riêng người Hà Nội, người Việt Nam, mà còn là một thành phố của con người. |
Cạnh đó là một người bán cà phê, cũng lại là cà phê dạo. Người bán ngồi giữa hai cái chạn, cái lò than để ngỏ, trên có một cái siêu kẽm nước soi. Ông ta rao chỏng lỏn cà phê… ôlé, nhưng chẳng biết có phải là cà phê sữa không, hay chỉ quen mồm rao, tạo sự chú ý. Cùng lúc từ ngôi chùa gần đó ngân lên hồi chuông sớm – tín hiệu xua tan bóng tối.
Trời đã sáng rõ, cuộc sống thường nhật càng thêm nhộn nhịp. Trước hết là trẻ bán báo: Ai Đông Pháp, Tin mới… đây ấy… Tiếng rao lảnh lót vang theo bước chạy của người bán, như một điệu kèn có luyến láy ở những nhịp âm cuối.
Tiếp theo là đạo quân bán hàng rong, bán quà sáng. Một bà già dáng điệu rúm ró, khăn vành dây quấn đầu, đội một cái thúng rao: Ai xôi ơi! Tiếng rao cũng yếu đuối, khó mà xác định được thang âm cung bậc ra sao. Một thằng bé ló ra sau một cái cổng, tay cầm cái bát gọi: Xôi ơi. Bà bán xôi ngồi thụp xuống hè, dỡ tấm vải phủ miệng thúng, lật cái vỉ buồm để lộ ra món xôi nếp, dùng một đôi đũa bằng tre đã mòn đơm món xôi cho khách giá chừng bốn, năm xu…
Ai bánh cuốn ra mua…, người bán hàng này cũng đội chiếc thúng trên đầu, ngoài bánh cuốn, ta còn thấy có chai nước mắm, bó đũa thò ra dưới cái mẹt đậy. Người hàng phố ở đây rất quen với món ăn này, có thể khi đi qua những nhà có khách quen, người bán cố tình rao to như để nhắc nhở họ. Thoáng thấy một người đầy tớ gái hé cánh cửa, bà ta dừng ngay bước, sửa soạn món ăn lên một cái mẹt con. Cô gái bưng vào, một chốc lại mang ra cái mẹt không, với bát đĩa dếch…
Đến lượt bà bún thang. Bước chân loạng choạng, bà gánh cơ ngơi của mình, một bên là nồi nước súp sôi sục tỏa hơi, một bên là phụ tùng bát đĩa, gia vị, bún, xương đầu cánh gà, trứng tráng mỏng thái chỉ, giò lụa cắt thành sợi, tôm, rau diếp cũng cắt lăn tăn và không thể thiếu món ăn mà người Tây phương rất kinh hãi, mắm tôm! Một tấm ván có thể gấp vào mở ra, bày đủ các gia vị, phụ tùng. Hay nhất là bà vừa sửa soạn suất ăn vừa không quên việc rao hàng: Ai bún thang ơ… chào mời kêu gọi.
Ngoài phở bò là món ăn phổ biến, còn có món phở gà tham gia vào sự sôi động của phố xá. Cũng là gánh phở lưu động, cũng có một thằng nhỏ giúp việc, người này cứ lăng xăng rao toáng: Phở gà, phở gà, phở gà ê…, tiếng rao của anh ta rành rẽ, mạch lạc, cố tình át lời rao của anh bán phở bò như thách thức.
Căn phố của tôi gần một bến chờ tàu điện. Nơi đây là điểm giao của hai tuyến đường Hà Nội – Hà Đông và Hà Nội – Cầu Giấy, đương nhiên là nơi tụ họp của những người chờ lên tàu. Không gì khó chịu bằng sự đợi chờ, vậy nên họ tiêu khiển bằng cách mua quà vặt, một cơ hội tốt cho những trẻ bán hàng rong. Mỗi khi có tàu vào bến chúng liền nhao vào, bao vậy, níu kéo, đeo đẳng khách hàng mời chào đủ món: báo chí, bánh kẹo, hoa quả, hạt dưa, mía, kem que, mùa nào thức nấy, đặc trưng của hè phố. Đó là những đứa trẻ lang thang sống cuộc đời vừa tội nghiệp, vừa ngây thơ, thảng hoặc ta nghe tiếng rao: Ai nước vối nóng, ăn thuốc không… mà nao lòng. Đây là một ông già rách rưới, mắt quáng gà bước khập khễnh quẩy hòn đá mài, lon nước rao: Ai mài dao, mài kéo ê…, kia là một ông thợ mộc quẩy đồ nghề cưa đục, cùng một anh chữa khóa với xâu chìa kim loại va quệt cái hòm gỗ lách cách đệm nhịp cho khúc ca: Khóa ơ, ai chữa khóa ơ… Người bán kẹo gôm: Kẹo hồng, kẹo hồng, anh này lôi cuốn trẻ con bằng cách giương cây kéo đánh lách cách, cắt đánh rụp lên mảnh kẹo tẩm vừng dàn trên thớt; Kẹo kéo mua là món mạch nha, người bán lấy que tre khều thứ mật đặc quánh ngọt ngào trong một cái hũ sành rồi quấn thành viên, thứ kẹo này họ còn chế thành từng thanh nhỏ nhưng rất cứng.
… và những hàng rong trên phố Hà Nội hôm nay.
Có mùa ta bắt gặp những người bán thứ cốm màu xanh, món quà này được bọc lá sen tươi, họ còn bán kèm những chiếc chổi rơm, thứ rơm nếp cùng loại với thứ lúa thơm này. Mùa nào thức ấy, khoai nướng, mía róc, hoa quả, hạt dưa, gương sen như cái ô doa bình nước, lũ trẻ bán lạc rang, kẹo, giá chỉ một hai xu bởi người An Nam rất thích ăn quà vặt, những món này vừa khoái khẩu vừa rẻ tiền. Ai kẹo vừng, kẹo bột ra mua, tiếng rao này lảnh lót chua chua đối lập với lời rao: Ai mía ra mua…, những hôm trời nóng nực lập tức có món kem lạnh: Kem một xu đây, ai kem đây, thêm nữa: Ai bánh tây, bánh tây năm xu đây…
Giờ ngủ trưa mới đến lượt bà bán chè xuất hiện. Bà gánh hai cái chạn gỗ có nhiều ngăn, sắp đặt những bát chè: hạt sen rắc xôi, chè ướp hoa bưởi, bà này rao đúng tên món hàng: Chè hạt sen không… Món ăn thanh tịnh này vừa qua thì ta nghe: Ai nem chua, chả sốt ra mua, giới sành ăn chỉ nghe tiếng rao này đã ứa nước miếng chẳng đừng được. Riêng món chả sốt (nem rán) là món ăn mà chính người Âu như tôi cũng hâm mộ, gồm thịt băm, thịt cua hoặc tôm, nấm, giá đậu, hành… bao gói trong cái bánh đa nem, thành dạng hình trụ, rán mỡ.
Những nhà mặt phố thường ngỏ cửa vừa để mát, nhưng cái chính là chủ nhà, các bà các cô thích tò mò chuyện phố, dù các bà đang trong buồng ngủ, phòng tắm cũng hóng được những sự việc diễn ra ngoài phố, dù hàng quà bánh lướt qua nhanh họ cũng kịp gọi mua hàng, kẻo nhỡ.
… Phố xá xứ Bắc kỳ là như vậy. Từ sáng tinh mơ đến tối khuya cứ sôi động, ồn ào náo nhiệt với tiếng guốc gõ quệt xa gần, đám đàn ông cãi nhau, tranh chấp hơn thiệt, đàn bà tựa cửa ngóng trông, người lớn ngồi trên vỉa hè tán gẫu, trẻ con chơi đùa dưới lòng đường coi như sân nhà, những người kéo xe chạy qua chạy lại, cu li oằn lưng gồng gánh hàng hóa.
Trời tối mịt, ngôi chùa gần đó dóng lên hồi chuông thu không, ta vẫn kịp nghe những tiếng rao Ai miến tàu không… lảnh lót trong đêm.
(*) Những tiếng rao trong bài được tác giả viết nguyên văn tiếng Việt.
Filed under: Văn hóa - Giáo dục | Tagged: dân ca, hà nội, Tiếng rao xưa..., văn hóa | Leave a comment »